Scholar Hub/Chủ đề/#viêm mũi dị ứng/
Viêm mũi dị ứng (hay còn gọi là dị ứng mũi) là một căn bệnh mà các phản ứng dị ứng xảy ra trong niêm mạc mũi khi tiếp xúc với các chất gây dị ứng. Có nhiều loại...
Viêm mũi dị ứng (hay còn gọi là dị ứng mũi) là một căn bệnh mà các phản ứng dị ứng xảy ra trong niêm mạc mũi khi tiếp xúc với các chất gây dị ứng. Có nhiều loại viêm mũi dị ứng, nhưng phổ biến nhất là viêm mũi dị ứng mùa, viêm mũi dị ứng quanh năm và viêm mũi dị ứng do dị ứng thức ăn.
Nguyên nhân chính của viêm mũi dị ứng là tiếp xúc với các chất gây dị ứng như phấn hoa, phấn mít, bụi nhà, hóa chất, thức ăn, nấm mốc, phân mèo, phân cún... Khi một người nhạy cảm tiếp xúc với chất gây dị ứng, hệ miễn dịch của cơ thể sẽ tự phản ứng bằng cách sản sinh histamine và một số chất dị ứng khác. Sự phản ứng này gây ra các triệu chứng như sổ mũi, ngứa mũi, chảy nước mũi, hắt hơi, ngứa mắt, đỏ mắt, ho khan và đau họng.
Viêm mũi dị ứng không phải là một căn bệnh nguy hiểm nhưng có thể gây khó chịu và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hàng ngày của người bệnh. Việc hạn chế tiếp xúc với các chất gây dị ứng, sử dụng thuốc giảm triệu chứng dị ứng hoặc tiêm phòng dị ứng có thể giúp kiểm soát và giảm triệu chứng của viêm mũi dị ứng.
Viêm mũi dị ứng là một bệnh về hệ miễn dịch, trong đó hệ miễn dịch của cơ thể phản ứng quá mức với các chất gây dị ứng thông qua việc tạo ra các chất dị ứng như histamine. Nguyên nhân chính của bệnh là tiếp xúc với các chất gây dị ứng, gọi là allergen.
Viêm mũi dị ứng mùa (hay còn gọi là cảm mùa hoặc vịt mùa) là loại bệnh phổ biến nhất trong viêm mũi dị ứng. Nó xảy ra vào mùa xuân và mùa thu khi cây cỏ, cây hoa phát triển và thả đủ phấn hoa vào không khí. Một số allergen phổ biến gây ra viêm mũi dị ứng mùa bao gồm phấn hoa cây (như cây trên cỏ, thảo mộc, cây thông), phấn hoa cỏ (như cỏ mỳ, lúa mì, lúa), phấn hoa cây kỳ đà (như cây dứa, đinh lăng).
Viêm mũi dị ứng quanh năm xảy ra suốt cả năm và có thể do nhiều loại allergen gây ra, bao gồm bụi nhà, phấn hoa, nấm mốc, phân động vật (như phân mèo, phân cún), và hóa chất như xăng, thuốc nhuộm, mực in.
Viêm mũi dị ứng do dị ứng thức ăn xảy ra sau khi tiêu thụ một loại thức ăn cụ thể gây dị ứng, như hạt dẻ, hải sản, trứng, sữa, lúa mì. Các triệu chứng bao gồm ngứa mũi, rát họng, rát mắt, ngứa và đỏ da, khó thở, ói mửa, tiêu chảy hay đau bụng.
Triệu chứng của viêm mũi dị ứng có thể làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hàng ngày, gây khó chịu, suy giảm năng suất làm việc và giảm chất lượng giấc ngủ. Để kiểm soát triệu chứng, người bị viêm mũi dị ứng có thể sử dụng thuốc giảm triệu chứng như antihistamine, corticosteroid mũi, và nasal decongestant. Đối với viêm mũi dị ứng do dị ứng thức ăn, việc tránh tiếp xúc với thực phẩm gây dị ứng là cần thiết. Trong một số trường hợp nghiêm trọng, người bệnh có thể xem xét tiêm phòng dị ứng.
NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN VỀ VAI TRÒ CỦA PHẪU THUẬT CHỈNH HÌNH VÁCH NGĂN TRONG ĐIỀU TRỊ VIÊM MŨI DỊ ỨNGMục tiêu: Mô tả và phân tích vai trò của phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn trong điều trị viêm mũi dị ứng. Phương pháp nghiên cứu:Tổng quan luận điểm các nghiên cứu tiến hành chỉnh hình vách ngăn ở bệnh nhân viêm mũi dị ứng trong cơ sở dữ liệu Pubmed và Google Scholar. Kết quả nghiên cứu: Có 9 nghiên cứu đủ tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ được đưa vào tổng quan. Nhiều thang điểm, bộ câu hỏi được dùng để đánh giá cải thiện triêu chứng và chất lượng cuộc sống sau phẫu thuật.Lâm sàng, các thang điểm đánh giá về triệu chứng và chất lượng cuộc sống nhìn chung đều cho thấy sự cải thiện tốt sau phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn ở bệnh nhân viêm mũi dị ứng. Bệnh nhân viêm mũi dị ứng ít cải thiện hơn sau phẫu thuật so với nhóm không có viêm mũi dị ứng. Kết Luận: Ở những bệnh nhân viêm mũi dị ứng có kèm theo dị hình vách ngăn thì vai trò của phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn không chỉ cải thiện đáng kể tình trạng ngạt mũi, mà còn có sự cải thiện đáng kể cả trong việc kiểm soát viêm mũi dị ứng. Cần tiếp tục điều trị nội khoa viêm mũi dị ứng sau phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn để đạt được kết quả hài lòng tối đa.
#Chỉnh hình vách ngăn #dị hình vách ngăn #viêm mũi dị ứng
Ứng dụng của bộ câu hỏi CARATkids trong kiểm soát hen ở trẻ em hen phế quản có viêm mũi dị ứngTóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá vai trò của bộ câu hỏi CARATkids trong kiểm soát hen ở trẻ em hen phế quản có viêm mũi dị ứng. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu dọc một loạt ca bệnh. Có 82 trẻ hen phế quản có viêm mũi dị ứng từ 6 - 15 tuổi được thăm khám, đo chức năng hô hấp và đánh giá tình trạng kiểm soát hen tại 3 thời điểm trước điều trị, sau 1 tháng và 3 tháng điều trị. Kiểm soát hen được đánh giá dựa vào bộ câu hỏi ACT và bộ câu hỏi CARATkids. Nghiên cứu được tiến hành tại Khoa Miễn dịch - Dị ứng - Khớp, Bệnh viện Nhi Trung ương. Kết quả: Điểm CARATkids trung bình trước điều trị ở trẻ hen phế quản có viêm mũi dị ứng là 9,4 ± 3,3. Điểm CARATkids ở nhóm hen không kiểm soát là 9,7 ± 2,2 cao hơn nhóm hen có kiểm soát là 7,4 ± 2,7, p<0,001. Điểm CARATkids có mối tương quan tuyến tính nghịch với các chỉ số chức năng hô hấp như PEF (r = -0,254, p=0,02), FEV1 (r = -0,195, p=0,08) và ACT (r = -0,629, p=0,003). Sau 3 tháng điều trị, điểm CARATKids là 3 ± 4,9 thấp hơn trước điều trị (p<0,05). Cả điểm ACT và điểm CARATkids đều có khả năng đánh giá tình trạng kiểm soát hen ở trẻ em. Kết luận: Bộ câu hỏi CARATkids có thể sử dụng để đánh giá kiểm soát hen ở trẻ hen phế quản có viêm mũi dị ứng.
Từ khóa: Hen phế quản, viêm mũi dị ứng, ACT, CARATkids.
#Hen phế quản #viêm mũi dị ứng #ACT #CARATkids
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ TẾ BÀO HỌC NIÊM DỊCH MŨI CỦA BỆNH NHÂN VIÊM MŨI DỊ ỨNGMục tiêu: Mô tả đặc điểm tế bào học niêm dịch mũi của các bệnh nhân viêm mũi dị ứng tại bệnh viện Tai Mũi Họng Trung Ương. Phương pháp: Nghiên cứu in vivo, thực hiện trên 20 bệnh nhân được chẩn đoán xác định viêm mũi dị ứng tại phòng khám Dị ứng – miễn dịch lâm sàng bệnh viện Tai Mũi Họng Trung Ương. Tất cả bệnh nhân được thực hiện xét nghiệm tế bào học niêm dịch mũi, đánh giá đặc điểm tiêu bản dựa trên tiêu chuẩn của Jianjun Chen và cộng sự [1]. Kết quả: tỷ lệ % các nhóm tiêu bản ưa acid, hỗn hợp, trung tính, ít tế bào lần lượt là 35%, 20%, 30%, 15%. Mức độ khó chịu chung theo thang điểm VAS có sự khác biệt, trong đó điểm VAS của nhóm ưa acid (8,00±0,82) lớn hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm trung tính (6,67±1,21) và ít tế bào (5,67±1,53) với giá trị p lần lượt là 0,032 và 0,004. Điểm VAS của nhóm hỗn hợp, trung tính và ít tế bào khác biệt không có ý nghĩa thống kê với các giá trị p đều lớn hơn 0,05. Mức độ nặng của các triệu chứng cơ năng và tổng điểm triệu chứng cơ năng của các nhóm tiêu bản khác biệt không có ý nghĩa thống kê với các giá trị p đều lớn hơn 0,05. Kết luận: Xét nghiệm tế bào học niêm dịch mũi cung cấp các thông tin về phân nhóm các bệnh nhân, có ý nghĩa về tiên lượng mức độ bệnh trong bệnh lý viêm mũi dị ứng.
#Tế bào học niêm dịch mũi #bạch cầu ưa acid #bạch cầu đoạn trung tính
Đa dạng di truyền của một loài schistosome mũi chim gây viêm da cercarial trên tuyến đường di cư Biển Đen-Địa Trung Hải Dịch bởi AI Parasitology Research - Tập 117 - Trang 3821-3833 - 2018
Nghiên cứu này là một phần trong nỗ lực ghi chép sự đa dạng của các loài schistosome avian trong vịt và ốc sên ở miền Bắc Iran, một hành lang di cư chính (Biển Đen/Địa Trung Hải) cho các loài chim di cư và nơi có viêm da cercarial (CD) phổ biến ở các khu vực trồng lúa. CD là một phản ứng dị ứng trên da từ các loài schistosome trematode xuất hiện từ ốc sên nước. Hầu hết các trường hợp CD được báo cáo từ những người bơi giải trí hoặc nông dân nuôi trồng thủy sản. Nhiều nghiên cứu về dịch tễ học CD đã tập trung vào các vùng nước giải trí ở châu Mỹ và châu Âu, trong khi ít nghiên cứu hơn ở lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là ở Iran. Môi trường nhân tạo tại các địa điểm nuôi trồng thủy sản hỗ trợ các quần thể ốc sên dày đặc là ký chủ của schistosome, cũng như vịt nhà. Vậy, có phải vịt nhà là ký chủ dự trữ của các loài Trichobilharzia, một trong những tác nhân gây bệnh chính của CD ở miền Bắc Iran? Nghiên cứu này tập trung vào khảo sát vịt nhà để tìm sự hiện diện của schistosome mũi, T. regenti, được báo cáo rộng rãi ở châu Âu. Trichobilharzia regenti đã được tìm thấy ở vịt nhà tại tỉnh Guilan của Iran dựa trên phân tích hình thái và phân tử. Sự hiện diện của loài này ở miền Bắc Iran cho thấy rằng vịt nhà có thể đóng vai trò là ký chủ dự trữ cho loài này và một trong những loài ốc sên địa phương có khả năng là ký chủ trung gian. Việc tiếp tục nghiên cứu và giám sát loài này là quan trọng vì đây là một loài schistosome gây tổn thương thần kinh có thể sử dụng đa dạng các ký chủ chim định danh và ốc sên Radix phổ biến khắp châu Âu và á.
#schistosome avian #viêm da cercarial #vịt nhà #ốc sên Radix #Trichobilharzia regenti
7. Tác dụng của phương pháp cấy chỉ trong điều trị viêm mũi dị ứngNghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá hiệu quả điều trị viêm mũi dị ứng bằng phương pháp cấy chỉ catgut vào huyệt và tác dụng không mong muốn của phương pháp. Nghiên cứu can thiệp, so sánh trước sau điều trị, có đối chứng. 60 bệnh nhân viêm mũi dị ứng chia ngẫu nhiên vào 2 nhóm tương đồng về tuổi, giới và mức độ bệnh. Nhóm nghiên cứu điều trị bằng cấy chỉ catgut, nhóm chứng điều trị bằng Loratadin. Sau 7 ngày điều trị, nhóm cấy chỉ cải thiện các triệu chứng cơ năng (ngứa mũi, ngạt mũi, chảy dịch mũi) và thực thể tốt hơn so với nhóm chứng (p < 0,05). Sau 30 ngày điều trị, số lần bệnh nhân tái phát ở 2 nhóm khác biệt không có ý nghĩa thống kê nhưng nhóm nghiên cứu chỉ có 40,7% bệnh nhân cần điều trị trong khi nhóm chứng là 76,7%. Nhóm nghiên cứu có 3 bệnh nhân (10%) sưng nề nơi cấy và tự khỏi sau 1 – 3 ngày, nhóm chứng có 6 bệnh nhân (20%) có cảm giác khô miệng họng và triệu chứng tự hết sau khi dừng thuốc.
#Viêm mũi dị ứng #cấy chỉ
GIÁ TRỊ CỦA CẮT LỚP VI TÍNH ĐA DÃY TRONG CHẨN ĐOÁN VIÊM XOANG DO NẤMMục đích: Đánh giá giá trị của CLVT đa dãy trong chẩn đoán viêm xoang do nấm. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả trên 31 bệnh nhân chẩn đoán lâm sàng là viêm xoang nghi do nấm, được chụp cắt lớp vi tính mũi xoang, được tiến hành phẫu thuật và làm xét nghiệm soi tươi, giải phẫu bệnh tại bệnh viện đại học Y Hà Nội trong thời gian từ tháng 06/2022 đến 12/2022. Dựa trên kết quả soi tươi hoặc giải phẫu bệnh là tiêu chuẩn vàng từ đó tính ra độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác của CLVT trong chẩn đoán viêm xoang do nấm. Kết quả: có 24 nữ/07nam, độ tuổi trung bình là 54.16±12.13, nghề nghiệp tự do và hưu trí chiếm 35.5%, sống ở khu vực thành thị chiếm 64.5%. Triệu chứng chảy mũi chiếm 93.5%, ngạt mũi chiếm 87.1%, nội soi thấy dịch khe và sàn mũi chiếm 90.3%. CLVT có hình ảnh khối mờ hỗn hợp trong lòng xoang chiếm 100%, dày thành xương chiếm 96.8%, nốt vôi hoá trong khối mờ chiếm 80.6%. Tỷ lệ chẩn đoán đúng của CLVT so với kết quả soi tươi/ giải phẫu bệnh là 83.9 %. Độ nhạy, độ đặc hiệu, và độ chính xác CLVT đạt 100% trong đánh giá vị trí mô nghi nấm trong xoang so với kết quả phẫu thuật. CLVT hạn chế trong đánh giá độ xâm lấn ở thể viêm xoang do nấm xâm nhập mạn tính ở lớp niêm mạc. Kết luận: CLVT có giá trị cao trong chẩn đoán viêm xoang do nấm. Cần chụp CLVT mũi xoang trong trường hợp nghi ngờ viêm xoang do nấm.
#viêm mũi xoang do nấm #nấm cầu #viêm xoang do nấm xâm nhập mạn tính
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh viêm mũi dị ứng do dị nguyên bụi bông ở công nhân 2 nhà máy may đo Quốc phòngTóm tắt
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh viêm mũi dị ứng do dị nguyên bụi bông. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 1.812 công nhân của 2 xí nghiệp may quốc phòng. Khai thác tiền sử dị ứng theo mẫu 25b của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), phân loại mức độ triệu chứng cơ năng, thực thể theo thang phân loại quốc tế TNSS. Xét nghiệm test lẩy da, định lượng hàm lượng IgE và IgA huyết thanh toàn phần của bệnh nhân viêm mũi dị ứng. Kết quả: Có 10,76% đối tượng phơi nhiễm bụi bông bị viêm mũi dị ứng. Bệnh nhân viêm mũi dị ứng do bụi bông có đủ 4 triệu chứng cơ năng chính: Ngứa mũi (42,6% mức độ vừa và 47,2% nhẹ); hắt hơi (33,8% vừa và 36,4% nhẹ); chảy mũi (39,0% vừa và 47,7% nhẹ); ngạt mũi (50,3% vừa và 27,7% nhẹ). Phần lớn bệnh nhân viêm mũi dị ứng do bụi bông có tổn thương niêm mạc mũi (48,1% nặng và 28,8% trung bình). Cuốn dưới của 70% bệnh nhân đều có tình trạng quá phát (53,3% quá phát nhẹ và 21,0% quá phát vừa). Tất cả các bệnh nhân có test lẩy da dương tính, chủ yếu là mức 2(+) và 3(+). Hàm lượng IgE huyết thanh toàn phần của các bệnh nhân cao, trung vị 1227,756UI/mL (575,424UI/mL - 38008,333UI/mL). Hàm lượng IgA huyết thanh toàn phần của bệnh nhân thấp, trung vị là 61,509mg/dL (26,773mg/dL - 211,826mg/dL). Kết luận: Bệnh nhân viêm mũi dị ứng do dị nguyên bụi bông có triệu chứng tương đối giống với viêm mũi dị ứng nói chung. Hầu hết bệnh nhân có 4 triệu chứng cơ năng, 2 triệu chứng về niêm mạc mũi và cuốn dưới, tất cả có test lẩy da (+) và hàm lượng IgE tăng cao, IgA thấp.
Từ khóa: Viêm mũi dị ứng, bụi bông, xí nghiệp may quốc phòng.
#Viêm mũi dị ứng #bụi bông #xí nghiệp may quốc phòng
Thuốc nhỏ dưới lưỡi từ phấn hoa cỏ ragweed trong viêm mũi dị ứng: một tổng quan có hệ thống và phân tích tổng hợp Dịch bởi AI Archives of oto-rhino-laryngology - Tập 279 - Trang 2765-2775 - 2022
Phấn hoa cỏ ragweed gây ra viêm mũi dị ứng và liệu pháp miễn dịch dưới lưỡi là một trong những phương pháp điều trị nhằm giảm nhạy cảm cho các cá nhân bị dị ứng. Tổng quan có hệ thống này đánh giá hiệu quả và độ an toàn của liệu pháp miễn dịch dưới lưỡi cho viêm mũi dị ứng do phấn hoa cỏ ragweed gây ra. Tìm kiếm cơ sở dữ liệu được thực hiện cho đến tháng 12 năm 2020. Các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng bằng tiếng Anh được bao gồm nếu so sánh liệu pháp miễn dịch dưới lưỡi với giả dược, liệu pháp dược lý hoặc các phác đồ liệu pháp miễn dịch dưới lưỡi khác và báo cáo kết quả lâm sàng. Độ mạnh của chứng cứ cho mỗi so sánh và kết quả được phân loại dựa trên mức độ thiên lệch, tính nhất quán, độ lớn của hiệu ứng và tính trực tiếp của chứng cứ. Các tìm kiếm thực hiện theo giao thức xác định được 134 tóm tắt trong đó 67 là trùng lặp. Tổng cộng có 37 bài báo đầy đủ được xem xét, trong đó có 5 bài được đưa vào nghiên cứu cuối cùng. Độ tuổi của các tham gia dao động từ 4 đến 58 tuổi. Mức độ thiên lệch thấp trong hầu hết các nghiên cứu. Tổng quan cho thấy liệu pháp miễn dịch dưới lưỡi cải thiện triệu chứng viêm mũi dị ứng, với 4 trong 4 nghiên cứu báo cáo hiệu quả cho thấy sự cải thiện trong điểm số triệu chứng của các nhóm SLIT so với giả dược. Phản ứng tại chỗ xảy ra thường xuyên, nhưng không có trường hợp sốc phản vệ nào được báo cáo trong bất kỳ nghiên cứu nào. Các sự kiện bất lợi nghiêm trọng rất ít trong tất cả các nghiên cứu. Tổng thể chứng cứ cho thấy hiệu quả của liệu pháp miễn dịch dưới lưỡi trong điều trị viêm mũi dị ứng có hoặc không có hen suyễn, nhưng các nghiên cứu chất lượng cao vẫn còn cần thiết để trả lời các câu hỏi liên quan đến chiến lược liều lượng tối ưu.
#phấn hoa cỏ ragweed #viêm mũi dị ứng #liệu pháp miễn dịch dưới lưỡi #anaphylaxis #tổng quan có hệ thống
Đánh giá và điều trị vùng xoang mũi trước khi ghép gan: một nghiên cứu hồi cứu 982 bệnh nhân Dịch bởi AI Archives of oto-rhino-laryngology - Tập 272 - Trang 897-903 - 2014
Sự ức chế miễn dịch sau khi ghép gan (LT) làm tăng biến chứng từ nhiễm trùng. Tính hữu ích của việc đánh giá vùng xoang mũi trước khi thực hiện LT vẫn chưa được đánh giá đầy đủ. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định tính hữu ích của việc đánh giá vùng xoang mũi thường qui trước khi thực hiện LT và điều trị viêm xoang trước ghép. Hồ sơ lâm sàng của 982 bệnh nhân trưởng thành (tuổi ≥18 năm) đã trải qua LT từ tháng 1 năm 1997 đến tháng 6 năm 2011 được xem xét và phân tích hồi cứu. Tổng số 920 bệnh nhân (93,7 %) đã trải qua việc đánh giá vùng xoang mũi trước LT, bao gồm bảng hỏi triệu chứng vùng xoang mũi, nội soi mũi và X-quang thường. Trong số các bệnh nhân này, 269 (29,2 %) có kết quả bất thường và đã thực hiện chụp CT xoang. Dựa trên kết quả chụp CT, 102 bệnh nhân, bao gồm 21 bệnh nhân có khối nấm, được chẩn đoán mắc viêm xoang và 62 (60,8 %) đã thực hiện LT sau khi được điều trị nội khoa hoặc phẫu thuật viêm xoang. 40 bệnh nhân còn lại (33 có viêm xoang và 7 có khối nấm) đã thực hiện LT mà không được điều trị viêm xoang. Không có sự khác biệt nào về biến chứng nhiễm trùng theo loại hình điều trị viêm xoang. Trong số các bệnh nhân viêm mũi xoang mãn tính, những người đã trải qua LT (n = 48) sau khi được điều trị đầy đủ có tỷ lệ tử vong thấp hơn so với những người không được điều trị (n = 33) (12,5% so với 33,3%; p = 0,024). Việc đánh giá vùng xoang mũi trước LT không ngăn ngừa được các biến chứng nhiễm trùng nhưng viêm xoang không điều trị có thể liên quan đến tỷ lệ tử vong gia tăng sau LT. Việc đánh giá vùng xoang mũi thường qui trước LT sẽ được xem xét để đảm bảo an toàn hơn trong quá trình ghép.
#viêm xoang #ghép gan #biến chứng nhiễm trùng #điều trị trước ghép #đánh giá vùng xoang mũi
25. Đánh giá tác dụng hỗ trợ điều trị viêm mũi dị ứng thể phong nhiệt của phương pháp cấy chỉ catgut vào huyệt
Nghiên cứu thực hiện nhằm đánh giá tác dụng hỗ trợ điều trị viêm mũi dị ứng thể phong nhiệt của phương pháp cấy chỉ catgut vào huyệt. Nghiên cứu can thiệp lâm sàng có đối chứng, so sánh trước - sau can thiệp. 60 bệnh nhân được chia 2 nhóm bằng cách ghép cặp tương đồng về tuổi, giới, mức độ bệnh. Cả hai nhóm đều điều trị phác đồ theo Y học hiện đại, nhóm nghiên cứu phối hợp thêm cấy chỉ catgut vào huyệt. Kết quả, nhóm nghiên cứu cải thiện rõ rệt các triệu chứng cơ năng (ngứa mũi, hắt hơi, chảy nước mũi, ngạt mũi); tình trạng niêm mạc mũi; chất lượng cuộc sống và số lần tái khám ít hơn so với nhóm đối chứng (p < 0,05). Trong nhóm nghiên cứu, tỉ lệ bệnh nhân đau tại điểm cấy chỉ là 5,0%; chảy máu tại chỗ là 13,3%; chỉ catgut chậm tiêu là 15,0%; không có bệnh nhân nào có tình trạng nhiễm khuẩn tại vị trí cấy chỉ. Do đó, phương pháp cấy chỉ catgut là một phương pháp an toàn và có tác dụng trong hỗ trợ điều trị viêm mũi dị ứng thể phong nhiệt.
#Viêm mũi dị ứng #cấy chỉ